Ở ĐBSCL, chuỗi liên kết sản xuất lúa gạo trên cánh đồng lớn chưa chặt chẽ, còn mang tính thời vụ, lợi ích cục bộ và chưa bền vững. Vì sao?
Sản xuất ở ĐBSCL, những trở ngại: Liên kết trên cánh đồng lớn nhưng… chậm lớn
Sản xuất ở ĐBSCL, những trở ngại: Liên kết, làm mới thấy khó
Nhiều năm qua, Công ty CP Trung An bền bỉ liên kết sản xuất lúa trên cánh đồng lớn ở ĐBSCL. Ảnh: Hữu Đức.
Doanh nghiệp tham gia cánh đồng lớn, nhưng…
Ở ĐBSCL, trong 5 năm qua, các địa phương trong vùng ra sức củng cố, hỗ trợ và phát triển các hợp tác xã (HTX), Tổ nông dân hợp tác thông qua lồng ghép các chương trình dự án. Nhất là tại một số tỉnh, thành, nhờ có Dự án chuyển đổi nông nghiệp bền vững (VnSAT), các HTX nông nghiệp kiểu mới bắt nhịp hoạt động năng nổ, đầu tư nhà kho, máy sấy, thực hiện cơ giới hóa các khâu sản xuất trên đồng ruộng để đáp ứng các điều kiện liên kết sản xuất với doanh nghiệp.
Hiện tại, TP Cần Thơ có khoảng 20 doanh nghiệp cung cấp vật tư nông nghiệp đầu vào và thu mua lúa. Các doanh nghiệp tham gia cánh đồng lớn thu mua cao hơn giá thị trường từ 50-150 đồng/kg. Thành phố tiếp tục tạo điều kiện hỗ trợ các HTX phát triển cánh đồng lớn, mỗi vụ trên 34.000 ha với trên 23.500 hộ nông dân tham gia. Nông dân tham gia cánh đồng lớn được tập huấn kỹ thuật sản xuất lúa tiên tiến.
Thế nhưng, vấn đề cốt lõi là làm thế nào thu hút doanh nghiệp tham gia liên kết sản xuất và hỗ trợ các HTX nông nghiệp kiểu mẫu? Vì vậy, Sở NN-PTNT Cần Thơ chọn được 4 HTX đối tác như: Khiết Tâm, Hiếu Bình, Thịnh Phát, Nhân Lợi tham gia sản xuất lúa theo kỹ thuật SRP (Bộ tiêu chuẩn sản xuất lúa gạo bền vững quốc tế) đáp ứng yêu cầu tiêu thụ theo tiêu chí của Tập đoàn xuất khẩu gạo Olam.
Một số địa phương khác trong vùng ĐBSCL nhận thấy không có nhiều doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo trên địa bàn nên đã năng động kêu gọi doanh nghiệp hợp tác liên kết sản xuất. Điển hình mới đây, tỉnh Sóc Trăng mời gọi nhiều doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh tham gia mở rộng quy mô cánh đồng lớn. Trong đó đặc biệt chú trọng vào lợi thế nhóm các giống lúa đặc sản của tỉnh, như: Nhóm giống lúa ST (nhất là các giống lúa ST24, ST25), lúa Tài Nguyên mùa, Thơm nhẹ.
Dù có nhiều lợi thế, nhóm giống lúa đặc sản của Sóc Trăng vẫn chưa đủ điều kiện phát triển. Sản lượng lúa toàn tỉnh trên 2 triệu tấn/năm, trong đó nhóm giống lúa thơm đặc sản chiếm trên 53%. Trong khi đó, trong tỉnh chỉ có 3 doanh nghiệp chế biến lúa gạo xuất khẩu với quy mô khoảng hơn 20.000 tấn/năm và 19 nhà máy, cơ sở xay xát chế biến lúa gạo. Tổng sản lượng sản phẩm sơ chế, chế biến các sản phẩm từ gạo khoảng 50.000 tấn/năm. Vì vậy, Sóc Trăng rất cần các doanh nghiệp ngoài tỉnh về tham gia liên kết sản xuất với các HTX trong tỉnh để mở rộng cánh đồng lớn.
Có thể nhận ra rằng, điểm lại trong hơn 10 năm qua, số doanh nghiệp “đại bàng” tham gia liên kết sản xuất lúa gạo bền bỉ ngay từ buổi đầu đến nay như Tập đoàn Lộc Trời, Công ty CP Trung An vẫn chưa nhiều. Vì sao?
Một cán bộ có thâm niên công tác trong ngành nông nghiệp tại địa phương nhận xét: Điểm mấu chốt khó nhất ở các địa phương là chưa có nhiều các doanh nghiệp “đầu đàn” và doanh nghiệp “chim sẻ” cùng tựu về tham gia liên kết sản xuất. Doanh nghiệp nào cũng cần có vùng nguyên liệu ổn định.
Trong khi đó, một số doanh nghiệp lại gặp khó về vốn đầu tư hạ tầng kỹ thuật, đáp ứng theo mùa vụ khi đồng loạt thu hoạch lúa vào mùa chín rộ, như phương tiện vận chuyển, hệ thống thiết bị sấy, nhà kho tồn trữ đảm bảo chất lượng chế biến gạo.
Đó là chưa tính đến nhu cầu số vốn vay lưu động. Nếu doanh nghiệp liên kết cánh đồng lớn trên 1.000 ha, sản lượng lúa thu mua 6.000-7.000 tấn/vụ, thì số vốn vay lên tới trên 40-45 tỷ đồng. Các doanh nghiệp “lớn thuyền” viện dẫn đó là một trong các lý do khó khăn.
Trở ngại, tồn tại từ đâu?
Theo Cục Trồng trọt, kết quả thực hiện cánh đồng lớn thông qua liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp và các HTX ở vùng ĐBSCL có suy giảm về diện tích. Trong vụ Thu Đông 2021 chỉ đạt trên 93.470 ha, bằng 66,7% so với mức ổn định 140.000 – 150.000 ha của các vụ trước đây.
Thương lái về thu mua lúa ở ĐBSCL. Ảnh: Hữu Đức.
Một số khó khăn, tồn tại trong quá trình thực hiện liên kết sản xuất lúa rơi vào điều kiện sản xuất tại một số địa phương, như: Vào vụ thu hoạch, do sản lượng lúa thu hoạch tập trung, nông dân bán lúa tươi, dẫn đến các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong chuẩn bị phương tiện vận chuyển, không đủ các thiết bị phơi sấy, kho chứa đựng nên lúa thu hoạch thường phải tập kết đầu bờ khoảng 4-5 ngày mới được thu gom hết. Một số diện tích lúa quá thời điểm thu hoạch, cần 7-10 ngày công mới được cắt nên ảnh hưởng đến năng suất cũng như chất lượng.
Một vấn đề tồn tại khá phổ biến là mặc dù giữa nông dân và doanh nghiệp có hợp đồng thu mua, nhưng vẫn xảy ra trường hợp doanh nghiệp thu mua không kịp thì nông dân bán cho thương lái bên ngoài.
Bên cạnh đó, còn có yếu tố lực lượng thương lái thu mua lúa vẫn chưa được chú trọng, chưa được gắn kết vào chuỗi liên kết sản xuất ngành hàng lúa gạo.
Về các hợp đồng liên kết sản xuất, hiện vẫn còn thiếu một hành lang pháp lý phù hợp cho việc giải quyết tranh chấp trong liên kết giữa các nhà, đặc biệt là hợp đồng sản xuất, tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp và nông dân. Ví dụ cụ thể là hợp đồng ký kết chưa được rõ ràng với nông dân; Trong hợp đồng không có sự thống nhất về địa điểm thu mua, ẩm độ, tạp chất, thiếu chế tài khi các bên không thực hiện đúng hợp đồng.
Nội dung hợp đồng bao tiêu sản phẩm là hợp đồng có tính hướng dẫn, không phải là hợp đồng kinh tế, do đó tính pháp lý không cao, các bên dễ vi phạm hợp đồng.
Trong khi đó, một bộ phận nông dân còn canh tác theo tập quán cũ, không tuân thủ theo quy trình sản xuất do cán bộ kỹ thuật hướng dẫn, chưa tham gia sinh hoạt, họp đầy đủ, dẫn đến việc khó khăn trong triển khai chính sách. Từ các yếu tố trên, có thể nói, trong sản xuất chưa có sự liên kết chặt giữa nông dân và doanh nghiệp.
Theo ý kiến đề xuất của Cục Trồng trọt, để việc hợp tác, liên kết sản xuất đạt kết quả tốt, thời gian tới cần rà soát kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng, sản phẩm phù hợp với lợi thế, nhu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu từng vùng, miền; Phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung, quy mô lớn, tổ chức sản xuất theo chuỗi đối với các sản phẩm chủ lực quốc gia. Đồng thời, khuyến khích phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ; gắn với chế biến tiêu thụ, xây dựng thương hiệu các nông sản chủ lực nhằm nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
Tỉnh Sóc Trăng xác định hiện có 21 vùng nguyên liệu lúa đặc sản, xây dựng 17 mô hình canh tác lúa đặc sản thích ứng với biến đổi khí hậu. Toàn tỉnh tổ chức sản xuất trên 240 cánh đồng lớn với 371 tổ hợp tác và 54 HTX nông nghiệp có hợp đồng liên kết tiêu thụ với tổng diện tích hơn 53.170ha. Toàn bộ diện tích nói trên được sản xuất theo hướng an toàn sinh học, hữu cơ, thực hành nông nghiệp tốt tiêu chuẩn Quốc tế. Riêng mô hình sản xuất lúa đặc sản theo hướng hữu cơ đang được nhân rộng với trên 2.400ha.
Bài viết gốc, tác giả:admin,Nếu sao chép, vui lòng ghi rõ nguồn:https://agrimarket.vn/dbscl-moi-lien-ket-trong-san-xuat-nguyen-nhan-tu-dau/