Hiện lĩnh vực sản xuất con giống phục vụ nuôi biển ở nước ta còn nhiều tiềm năng, bởi mới đáp ứng một phần, số còn lại từ nhập khẩu và khai thác tự nhiên.
Giống thủy sản cho nuôi biển: Cá chẽm tăng trưởng nhanh
Giống thủy sản cho nuôi biển: Cá mú trân châu lên ngôi
Giống thủy sản cho nuôi biển: Làm chủ công nghệ nhiều giống giá trị
Giống thủy sản cho nuôi biển: Yếu tố then chốt quyết định thành công
Sản xuất giống thủy sản còn nhiều tiềm năng
Ông Trần Đình Luân, Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản, cho biết, cả nước hiện có 51 cơ sở sản xuất giống cá biển, với sản lượng đạt 509 triệu con. Trong đó, vùng Đồng bằng sông Hồng có 22 cơ sở sản xuất giống, sản lượng sản xuất đạt 350 triệu con; vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung có 16 cơ sở sản xuất giống, sản lượng sản xuất đạt 70 triệu con; vùng Đông Nam bộ có 12 cơ sở sản xuất giống, sản lượng đạt 89 triệu con và vùng ĐBSCL có 1 cơ sở sản xuất giống tại Bến Tre.
Hiện lĩnh vực sản xuất giống thủy sản phục vụ nuôi biển còn nhiều tiềm năng.
Theo ông Trần Đình Luân, mặc dù chúng ta đã làm chủ công nghệ sản xuất giống nhiều loài cá biển, song chưa được chuyển giao rộng rãi cho các cơ sở sản xuất giống nên hiệu quả mang lại chưa thực sự cao. Trong khi đó do công nghệ phức tạp, đầu tư tốn kém nhưng lợi nhuận thấp, rủi ro lớn nên sản xuất giống cá biển chưa thu hút được sự đầu tư của các doanh nghiệp hay ngư dân.
Trừ đối tượng cá vược, cá chim vây vàng, cá giò đã được một số cơ sở sản xuất, còn các loài khác mới được sản xuất trong cơ sở của các Viện nghiên cứu, Trường đại học, các trung tâm giống và một số ít doanh nghiệp. Nhà nước tuy đã có những chủ trương chính sách khuyến khích phát triển nuôi biển nhưng chưa đầu tư cho nhiều đề tài nghiên cứu, để giải quyết dứt điểm trong một thời gian ngắn làm chủ công nghệ sản xuất giống một số loài có giá trị kinh tế cao.
Đối với xuất giống nhuyễn thể, hiện chúng ta có khoảng 387 trại; sản lượng ước đạt 45 tỷ con. Trong đó tại tỉnh Quảng Ninh sản xuất giống tu hài, hàu; các tỉnh Nam Định, Thái Bình sản xuất giống ngao, hàu, tu hài. Còn các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bến Tre, Tiền Giang nhiều trại sản xuất giống tôm quy mô nhỏ đã chuyển sang sản xuất giống ốc hương. Ngoài ra, có một số lượng giống nhuyễn thể được nhập từ Trung Quốc đưa vào nuôi ở các tỉnh phía Bắc.
Nuôi cá biển trên vịnh Vân Phong, huyện Vạn Ninh.
Còn sản xuất giống giáp xác (tôm hùm, cua, ghẹ…) hiện còn nhiều hạn chế. Đối với tôm hùm, chúng ta chưa chủ động được công nghệ sản xuất giống. Do đó, con giống phục vụ nuôi thương phẩm hiện phụ thuộc vào khai thác tự nhiên tại các tỉnh miền Trung chiếm từ 25 – 30%, số còn lại phải nhập khẩu. Từ đó dẫn đến nguồn cung con giống không ổn định về số lượng, chất lượng kéo theo gây rủi ro lớn cho người nuôi.
Riêng nguồn cua, ghẹ giống trước đây chủ yếu thu gom từ tự nhiên nên diện tích nuôi thương phẩm còn thấp, quy mô nhỏ lẻ và hạn chế. Tuy nhiên hiện nay công nghệ sinh sản nhân tạo cua, ghẹ đã được hoàn thiện, chuyển giao công nghệ sản xuất giống cho nhiều địa phương, góp phần vào việc phát triển nuôi thương phẩm các đối tượng này.
Nuôi tôm hùm ở các tỉnh Nam Trung bộ.
Với mục tiêu đến năm 2025, diện tích nuôi biển của nước đạt 280.000 ha, thể tích lồng nuôi 10 triệu m3; sản lượng nuôi biển đạt 850.000 tấn; giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 0,8 – 1,0 tỷ đô la Mỹ. Đến năm 2030 diện tích nuôi biển đạt 300.000 ha, thể tích lồng nuôi 12 triệu m3; sản lượng nuôi biển đạt 1.450.000 tấn; giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 1,8 – 2,0 tỷ đô la Mỹ. Do đó nhu cầu con giống phục vụ cho nuôi biển là rất lớn.
Tuy nhiên lãnh đạo Tổng cục Thủy sản cho rằng, hiện trong nước mới cung cấp giống được một phần, phần còn lại từ nhập khẩu hoặc khai thác từ tự nhiên. Do đó, lĩnh vực sản xuất con giống phục vụ cho phát triển nuôi biển của nước ta còn nhiều tiềm năng để phát triển.
Nghiên cứu, chọn tạo giống phục vụ nuôi biển
Vậy để tiếp tục tìm những giống nuôi biển chất lượng, đáp ứng nhu cầu người nuôi, sản phẩm làm ra đáp ứng thị trường và phục vụ xuất khẩu, người đứng đầu Tổng cục Thủy sản cho rằng, các Viện, Trường, các trung tâm giống…cần tổ chức thu thập, nhập khẩu, lưu giữ và bảo vệ đàn giống gốc.
Đồng thời thực hiện chương trình nghiên cứu áp dụng những thành tựu công nghệ mới về gia hóa và chọn giống nhằm liên tục cải tiến chất lượng của con giống bố mẹ. Cùng với đó thực hiện xã hội hóa hoạt động nghiên cứu và ứng dụng công nghệ trong sản xuất giống để sản xuất, ương dưỡng con đủ số lượng, đảm bảo chất lượng phục vụ nuôi thương phẩm.
Nuôi cá chim vây vàng trên vùng biển tỉnh Khánh Hòa.
Bên cạnh đó, rà soát và có kế hoạch ưu tiên nghiên cứu, chọn tạo giống phục vụ nuôi biển phù hợp với kế hoạch phát triển chung cả nước, trong đó tập trung vào nhóm giá trị kinh tế cao như: Nhóm cá biển (cá song/mú, cá vược/chẽm, cá chim vây vàng, cá giò, cá hồng mỹ, cá tráp, cá ngừ, sủ đất…), nhóm nhuyễn thể (ngao, hàu, tu hài, sò huyết, vẹm xanh,…), nhóm giáp xác (tôm hùm, cua biển, ghẹ,…), kỹ thuật sản xuất giống rong tảo biển (rong câu chỉ vàng, rong sụn, rong mứt, tảo biển…), sinh vật cảnh và các đối tượng khác phục vụ nuôi biển.
Về gợi ý phát triển nuôi biển ở các tỉnh đầy tiềm năng như Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, lãnh đạo Tổng cục Thủy sản cho biết thêm, các đối tượng nuôi lợi thế ở khu vực này như tôm hùm, cá biển, rong tảo biển, nhuyễn thể (hàu, ốc hương, bào ngư, tu hài…), cùng với đó phát triển sinh vật cảnh và nghề cá giải trí. Trong đó tại Khánh Hòa, Ninh Thuận nên tập trung xây dựng các vùng sản xuất giống cá biển, rong, tảo biển, sinh vật cảnh. Còn các tỉnh Bình Định, Phú Yên thì xây dựng và vận hành mô hình đồng quản lý trong quản lý và khai thác có hiệu quả, bền vững giống tôm hùm và giống nhuyễn thể tại tỉnh Bình Thuận.
Ông Trần Đình Luân, Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản: “Đối với vùng nuôi biển xa bờ tại các tỉnh như Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận nên phát triển mạnh nuôi các đối tượng có lợi thế cạnh trạnh và có thị trường tiêu thụ lớn như: Nhóm cá biển (cá chim vây vàng, cá song/mú, cá cam, cá hồng mỹ, cá tráp, cá vược/chẽm, cá giò/bớp, cá ngừ,…); nhóm nhuyễn thể (trai ngọc, điệp quạt, hàu Thái Bình Dương); hải đặc sản khác. Tuy nhiên nên nuôi theo hình thức công nghiệp, hiện đại, quy mô lớn, đảm bảo an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu; sử dụng hệ thống lồng, bè có kết cấu và vật liệu phù hợp với từng đối tượng nuôi, chịu được biến động thời tiết.”
Bài viết gốc, tác giả:admin,Nếu sao chép, vui lòng ghi rõ nguồn:https://agrimarket.vn/giong-thuy-san-cho-nuoi-bien-uu-tien-giong-cho-nuoi-trong-bien/